I-Về nhà thơ Huy Cận:
1.Hồn thơ:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Lời thơ trên có thể được xem là bức chân dung
tự họa của Huy Cận khi viết Lửa thiêng. Âm hưởng Đường thi được thể
hiện qua cấu trúc đăng đối. Một bên là cái nhỏ bé, một bên là cái rộng lớn, vô
cùng, vô tận. Từ quan hệ đăng đối này, ta cảm nhận được tâm trạng khắc khoải
trong không gian của nhà thơ Huy Cận, nhất là khi tâm trạng khắc khoải, rợn
ngợp ấy được đặc tả trong từ láy tượng hình mang mang , gợi về
một miền không gian vô tận.
Nỗi sầu vũ trụ và nỗi sầu
nhân thế đang chất chứa trong tâm hồn nhà thơ Huy Cận ngày hôm nay. Bởi ở thời
kỳ này, Huy Cận trong phong trào Thơ mới cũng thỉ là một cái tôi cá nhân tồn
tại ở vị thế côi cút, lạc lõng, bơ vơ trong long cộng đồng và trong dòng đời. Ý
niệm về sự tồn tại này đã được nhà thơ đẩy lên thành triết lí vũ trụ quan, nhân
sinh quan. Nhà thơ đã tự nhận thức, tự xác định sự tồn tại của mình trong không
gian là nhỏ bé và dòng đời là lạc lõng, bơ vơ. Nhận thức này đã tạo nên nỗi ám
ảnh và nỗi sầu vũ trụ, nỗi sầu nhân thế in đậm trong những lời thơ của Huy Cận.
2. Phong cách nghệ thuật:
- Huy Cận là một hiện tượng lai giống: một đứa
con của thi pháp Thơ mới nhưng trong huyết quản vẫn chảy dòng máu thơ cổ điển.
Trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu và Huy Cận
không chỉ là hai điệu hồn đối nghịch mà còn là hai phong cách khác biệt độc
đáo. Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới thì Huy Cận vẫn
còn vương vấn với khung trời thơ ca cổ điển. Mặc dù ngòi bút của Huy Cận đã
sang tác bằng thi pháp thơ tượng trưng nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng
thơ cổ điển ở nhiều phương diện như thi liệu, thi hứng và cả thi pháp.
Đọc thơ Huy Cận ta vẫn bắt gặp những mô típ đề
tài quen thuộc của thơ cổ điển như mối quan hế: con người-dòng đời, con người-
vũ trụ.
Cảm hứng nổi bất trong thơ Huy Cận là nỗi sầu
vũ trụ và nỗi sầu nhân thế, đều được khơi nguồn từ những nguồn thơ cổ điển.
Huy Cận còn sử dụng những phương thức nghệ
thuật cổ điển như thể thơ thất ngôn Đường luật, những hình ảnh tượng trưng, ước
lệ , thậm chí là những ý thơ của người xưa.
Mặc dù vậy, ngòi bút thơ của Huy Cận lại không
ngừng cách tân, đổi mới để hiện đại hóa thi pháp.
-Nếu như Xuân Diệu là thi sĩ sang tác bằng trực
giác mãn tiệp thì Huy Cận lại sáng tác bằng những suy tư, nghiền ngẫm, trầm mặc
sâu sắc. Lời thơ Huy Cận chứa đựng nhiều ẩn ý có tính trừu tượng, tính khái
quát và mang ý vị triết học.
II- Về bài thơ Tràng Giang:
1.Tâm trạng bang khuâng, khắc khoải trong không
gian:
-Nỗi sầu nhân thế: khổ 1,3 và 2 câu đầu khổ 4:
Đọc bài thơ Tràng giang ta
nhận biết được một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ:
con thuyền- dòng sông ;
cành củi-dòng nước ;
cánh bèo-mặt nước :
cánh chim-lớp lớp mây cao.
Nét nghĩa tương đồng của hệ thống tín hiệu thẩm
mĩ này gợi mở cho ta cảm nhận được quan hệt giữa cong người với dòng đời. Qua
hệ thống tín hiệu thẩm mĩ này, nhà thơ dãi bày, bộc lỗ tâm sự của một cái tôi
cá nhân cô đơn, buồn sầu, bế tắc, mất phương hướng giữa dòng đời. Tuy nhiên,
trong hệ thống tín hiệu thẩm mĩ nói trên, mỗi cặp đôi hình ảnh ẩn dụ lại có một
sắc thái tín hiệu thẩm mĩ riêng biệt, độc đáo để biểu hiện cho những nỗi niềm
tâm trạng trùng phức trong lòng người.
Sóng gợn tràng giang buồn
điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song
song
Ở cặp
đôi hình ảnh ẩn dụ con thuyền-dòng sông, ta cảm nhận được sự bất
lực của cái tôi cá nhân trước dòng đời rộng lớn vô tận. Hai câu thơ mở đầu bài
thơ Tràng giang vang vọng âm hưởng Đường thi bởi được tổ chức bằng
quan hệ đăng đối cả về hình ảnh, thanh điệu lẫn ý nghĩa. Hình ảnh tràng giang
mênh mông, bao la được miêu tả để đối lập với con thuyện nhỏ bé, đơn chiếc.
Dòng sông ở đây được miêu tả qua trạng thái cảm xúc của một tâm hồn cô đơn nên
có ấn tượng buồn điệp điệp. Nỗi buồn ở đây vừa có chiều rộng, vừa
có bề sâu, vừa mênh mang dàn trải,vừa da diết, khắc khoải. Đối xứng với trạng
thái này là trạng thái nước song song, gợi tả ấn tượng về sự chảy trôi miên
man, vô tận. Hình ảnh con thuyền buông xuôi mái chèo để cho dòng nước cuốn đi
đã trở thành ẩn dụ cho con người hờ hững phó mặc cho dòng đời chảy trôi, bất
tận.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Khác với cặp đôi hình ảnh ẩn dụ con
thuyền- mặt nước, cặp đôi hình ảnh ẩn dụ cành củi- dòng nước gợi
mở cho ta ấn tượng về thân phận cái tôi cá nhân bế tắc, mất phương hướng, không
biết đi đâu về đâu trước trăm ngả đường đời.
Bèo
dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò
ngang
Ẩn dụ cánh bèo- mặt nước cũng
biểu hiện cho bi kịch bế tắc, mất phương hướng của cái tôi cá nhân. Tuy nhiên,
hình ảnh cánh bèo nổi trôi lênh đênh trên mặt nước và đặc biệt là hàng
nối hàng còn gợi tả ý nghĩa về thân phận mong manh, vô định của cả một
lớp người trong dòng đời.
Mênh mang không một chuyến đò
ngang
Nỗi sầu nhân thế trong
bài thơ Tràng giang còn được biểu hiện qua ẩn dụ đôi bờ bị
ngăn cách bởi dòng sông. Đọc câu thơ Mênh mông không một chuyến đò
ngang ta thấy tác giả dung bút pháp đòn bẩy. Hình ảnh đôi bờ bị ngăn cách
bởi dòng sông mà không có một chuyến đò giao nối là ẩn dụ cho những con người
cùng song song tồn tại trong dòng đời nhưng lại không thể cùng giao tiếp, hòa
cảm, hòa điệu => con người cô đơn với chính con người mà khoảng cách giữa
người với người được tạo ra bởi mỗi tâm hồn là một ốc đảo tinh thần lạc lõng,
bơ vơ.
Không cầu gợi chút niềm thân
mật
Ở đây, không chỉ cô đơn mà con người còn tự phủ
nhận nhu cầu giao tiếp, đồng cảm, hòa cảm.Hình ảnh:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
gợi cho ta cảm nhận về một con người hờ hững
với chính mình, tự khép cánh cửa tâm hồn trong trạng thái cô đơn vĩnh viễn.
Những cặp đôi hình ảnh ẩn dụ
trên đều biểu hiện cho bi kịch bế tắc trong mối quan hệ của con người với dòng
đời. Còn cặp đôi hình ảnh ẩn dụ cánh chim nhỏ bé trên nền không gian lớp
lớp mây cao đùn núi bạc lại biểu hiện cho bi kịch cô đơn, lạc lõng, bơ
vơ của con người trước dòng đời mênh mông, cảm giác hãi hung, rợn ngợp, đầy lo
âu, choáng váng.
-Nỗi sầu vũ trụ: khổ 2
Ở vị thế của một người thứ lữ với
một nỗi buồn li hương, Huy Cận đã cảm nhận được ở bức tranh sự sống trên miền
đất lạ nỗi buồn sầu tê tái. Bức tranh sự sống được nhà thơ miêu tả qua những ấn
tượng hình ảnh, âm thanh giàu giá trị biểu cảm. Những ấn tượng lơ thơ,
đìu hiugợi mở cho ta cảm nhận về một miền không gian ảm đạm, tiêu điều. Nhà
thơ còn sử dụng bút pháp nghệ thuật đòn bẩy, dùng cái động để tả cái tĩnh.
Không có tiếng làng xa khiến cho không gian càng thêm tĩnh lặng, hoang vắng,
lòng người da diết buồn.
Viết hai câu thơ:
Nắng
xuống trời lên sâu chót vót
Sông
dài bờ rộng bến cô liêu
Huy Cận đã tạo nên một sự kết hợp từ phi lý.
Tuy nhiên, nói như nhà ngôn ngữ học Phan Ngọc : “Thơ là sự tổ chức ngôn ngữ một
cách quái đản”. Chính sự kết hợp phi lí ở câu thơ lại là một sự kết hợp hoàn
toàn hợp lí bởi đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật. Câu thơ tạo ra quan hệt đối lập,
tương phản giữa các chiều hướng không gian: nắng xuống với trời lên, trời lên
với sâu, sâu với chót vót. Kết hợp với những hình ảnh sông dài, bờ rộng ở câu
thơ sau, Huy Cận đã tạo ra một bức tranh không gian vũ trụ có cả chiều cao, độ
sâu, chiều dài, bề rộng. Những chiều hướng không gian đều được mở ra đến vô
cùng, vô tận để đối lập với hình ảnh bến cô liêu, là ẩn dụ cho con
người nhỏ bé, côi cút, bơ vơ. Đọc những lời thơ này, ta cảm nhận được triết lí
vũ trụ quan sâu sắc của nhà thơ Huy Cận. Trong triết lí này, con người chỉ là
một bộ phận nhỏ bé tồn tại trong vũ trụ thăm thẳm bao la.
2.Nỗi nhớ quê hương:
Đọc bài thơ Tràng giang, ta
nhận ra được nhân vật trữ tình là người lữ thứ li hương. Vì đã xa rời nơi cư
trú của tâm hồn nên trên hành trình lữ thứ, cong người này luôn thao thức hướng
về nơi neo đậu, hướng về xứ sở. Nhà thơ đã biểu hiện nỗi nhớ một cách sâu sắc
qua từ láy dợn dợn: từ láy có ý nghĩa tượng hình lẫn tượng thanh, biểu hiện nỗi
nhớ quê hương và lòng người như những con song nối tiếp nhau trải dài vô tận
trên không gian dòng sông, đồng thời nỗi nhớ quê hương ấy tha thiết vỗ đập
trong lòng người.
Câu thơ cuối được Huy Cận
viết từ ý thơ Thôi Hiệu đời Đường:
Quê
hương khuất bóng hoàng hôn
Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai
Cả hai lời thơ trên đều biểu hiện nỗi nhớ quê
hương da diết, khắc khoải trong lòng người lữ thứ. Tuy nhiên, mỗi câu thơ lại
có một phương thức biểu hiện cảm xúc khác nhau. Với nhà thơ cổ điển, cảm xúc
được biểu hiện một cách gián tiếp qua nguyên tắc tức cảnh sinh tình, tả cảnh
ngụ tình, Trước cảnh khói sóng trên sông, vào lúc hoàng hôn, lòng người đã giãi
bày, bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết. Trái lại, đối với thi sĩ Thơ mới, cảm
xúc được biểu hiện một cách trực tiếp. Huy Cận đã phủ định ngoại cảnh để khẳng
định tâm cảnh. Không có khói trên sông vảo lúc hoàng hôn nhưng lòng người vẫn
nhớ quê hương tha thiết. Nỗi nhỡ quê hương đã ám ảnh thường trực và khởi phát
tự lòng người => đây là sự kế thừa, cách tân của Thơ mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét